Thơ Jan 01 2015 : Cái Trọng Ty
Thơ Đầu năm của Cái Trọng Ty
Bác Ty và Nguyễn Mậu Lộc
Đời lính
Thơ Đầu năm của Cái Trọng Ty
Bác Ty và Nguyễn Mậu Lộc
Đời lính
Năm 1972, Đại Lộc, Quảng nam.
Chiến tranh Việt Nam đã kéo dài và dữ dội quá sức chịu đựng của mọi người. Dài thê thảm, dài đau đớn. Người dân Việt mong mỏi chiến tranh lắng xuống và sống sót.
Hè 1972 chiến sự bùng lên cùng khắp mọi miền. Ngày 30 tháng 3 ở Đông Hà, 24 tháng 4 ở Tân Cảnh, 7 tháng 4 ở An Lộc, 1 tháng 5 cho Huế và Quảng Trị… Kontum,Hoài Ân, Tam Quan, Bồng Sơn, Bình Giả, Đất Đỏ nối theo… Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, khe suối, tận cùng con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ…Mùa Hè 1972, trên bao nhiêu thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt.
Mùa hè đỏ lửa đi qua nhưng hệ quả của nó như một dư chấn lan tỏa rộng khắp miền Nam. Những hình ảnh tang thương, chết chóc của dân chúng trên đại lộ kinh hoàng ở Quảng trị trong trận tấn công ào ạt bất ngờ của phía bên kia và cuộc rút chạy hoảng loạn tan hàng của Sư Đoàn 3 mới thành lập tạo nên một chấn động tâm lý trên tất cả mọi người. Tiếp đó là cuộc chiến dành từng tất đất từng ngôi nhà đầy cam go và bi tráng ở cổ thành và trong thị xã Quảng Trị . Bao máu xương của những người lính trẻ của cả hai bên đổ xuống trên thành phố đổ nát này. Bao nhà cửa tan nát. Bao mạng người nằm xuống. Bao mảnh đời bất hạnh. Chết chóc, ly tan. Chiến tranh từ thời điểm đó rộng khắp miền Nam với quy mô hơn và ác liệt hơn cho tới cuối năm và đầu năm sau nữa Tin chiến sự càng ngày càng nóng bỏng trên các trang báo hàng ngày.
* *
Quê nội nàng ở làng Nam Phổ. Qua khỏi Vỹ Dạ, xuống Phú Thượng, nơi có bánh bèo chén nổi tiếng, rồi đến làng Nam Phổ, nổi tiếng với bánh canh và cau. Khắp Huế nơi nào cũng có những vườn cau xanh um, với những buồng cau sây trái múp míp, nhưng đặc biệt ở đây cau nổi tiếng vì người ta đùa cợt cách hái cau: “ Con gái Nam Phổ ở lổ trèo cau”. Người ta nói đùa luôn vận để chọc con gái ở đây thôi, chứ làm chi có chuyện nghịch đời như thế! Chỉ vì con gái Nam Phổ nhiều người đẹp, duyên dáng mà thôi.
“Dây tơ hồng không trồng mà mọc, gái chưa chồng anh chọc anh chơi” mà! Tôi đoán mò mà trúng mé mé như thế làm nàng phục sát đất. Nam Phổ, Vỹ Dạ cũng gần nhau, nói được nàng ở Vỹ Dạ là giỏi lắm rồi.
Chúng tôi quen thân nhau nhanh chóng như đã từng quen biết nhau tự thuở nào. Tự dưng không nhận người ta là em người dưng khác họ, có loại em chi mà lạ rứa không biết nữa. Về sau này khi tôi hát bài dân ca Nam bộ “lý quạ kêu” có đoạn “ Kêu cái mà…quạ kêu, Quạ kêu…nam đáo, Nam đáo…tắc đáo nữ phòng, người dưng khác họ…chẳng nọ thì kia, nay dìa mai ở, Ban ngày thì mắc cỡ, tối ở , hổng thèm dìa. Rằng a í a ra dìa, rằng thương nhớ thương” nàng đỏ mặt, dơ nắm đấm dứ dứ trước mặt tôi bặm môi trợn mắt nhưng nét mặt vui vui, ra ý liệu hồn anh đó nghen, coi chừng mà loạng quạng.“ Mới gặp người ta mà đã nói nhớ với thương, xạo dữ a. Mấy ông người Huế vô đây xạo ghê lắm. Tin chi nỗi”. Nói giọng Huế hết dữ tới ghê rồi tin chi nổi nhưng nàng vẫn tin. Oái oăm thế chứ!
* *
Đường đi từ Đà nẳng lên thị trấn Ái Nghĩa, huyện Đại lộc xa gần 30 cây số. Cảm giác xa tít mù là khi đi trên con đường nhựa vắng không một bóng người. Con đường độc đạo dằng dặc chạy cạnh dãy núi đồi trọc trơ trụi chập chùng , thỉnh thoảng mới gặp một xóm nhà dân làm người đi trên đường có cảm giác rờn rợn vì một mối nguy hiểm vô hình có thể đổ đến bất chợt. Con đường nhựa chỉ mới làm nền đường, chưa đổ lớp nhựa nóng láng xà coóng trên mặt thì ngưng lại, nghe nói là do tình hình an ninh không bảo đảm, có hai người Mỹ da đen là công nhân xây dựng cầu đường bị bên tê bắn tỉa chết tươi trên tay lái chiếc xe hủ-lô nên phía Mỹ giao lại cho Ty Công chánh Quảng Nam làm tiếp phần còn lại nhưng mấy năm trời công việc vẫn ỳ một chỗ. Mặt đường nhựa làm nửa chừng bị lụt lội hàng năm phá hỏng , cọng thêm xe GMC chở lính hành quân, xe tăng M113, các trọng pháo kéo lên vùng ven Đại lộc làm đường lộ nát ra với những ổ trâu, ổ voi giăng đầy suốt con đường.
…Ăn Tết xong, thầy trò đến trường để làm lễ tựu trường đầu năm. Ông Hiệu trưởng bận gì không đến. Lễ làm qua loa cho xong. Một bó hoa lay-ơn màu đỏ thắm trở nên vô duyên vì chẳng có lễ tiết gì . Nàng đem bó hoa vào phòng ông hiệu trưởng. Sẵn máy ảnh chuẩn bị chụp hình cho buổi lễ đầu năm, thầy Ngô Huỳnh chụp liền mấy tấm hình kỷ niệm nàng ôm bó hoa cười tươi, tôi đứng kế bên quàng vai nàng như đôi tân lang tân giai nhân trong lễ cưới. Thời gian sau hỏi Huỳnh mấy tấm hình kỷ niệm đâu rồi, Huỳnh trả lời tỉnh bơ mình quên charge film!
“Chặt chặt, chặt” như thế nên ông Thiệu làm hai bên lâm chiến lúng túng phải trì hoãn việc ký kết văn bản Hiệp định Hòa bình Paris. Trước sức ép nặng nề của chính quyền Nixon quyết định dứt khoát rút quân ra khỏi Việt Nam và nói thẳng với ông Thiệu, nếu ông không ký thì Mỹ vẫn ký Hiệp định với Hà Nội, ông Thiệu phải nhượng bộ.Chẳng đặng đừng,chính quyền miền Nam phải cùng các bên hòa đàm ký vào văn bản Hiệp định Hòa Bình Paris ngày 27/1/1973.
Trước ngày ký hiệp định, chính quy ền ra lệnh đánh dấu lảnh thổ bằng cách vẽ lá cờ vàng ba sọc đỏ mọi nhà, mọi nơi. Thế mà qua ngày 28/1khi hiệp định hòa bình có hiệu lực, nhiều vùng thôn xóm xa xa xuất hiện nhiều lá cờ xanh đỏ sao vàng treo trên đầu ngọn tre, ở xa vẫn nhìn rõ. Da beo.
* *
…Tôi phụ trách văn nghệ và báo chí của trường.
Những buổi giao lưu văn nghệ với trung đoàn 54 đóng trên đồi. Những buổi đi thăm tiền đồn giao lưu văn nghệ với lính đóng quân nơi tiền tuyến. Thầy hát, cô hát, học trò hát hồn nhiên vui vẻ trong những chuyến dã ngoại bất ngờ.
Một buổi tối, chỉ huy trung đoàn 54 mời thầy cô và nhân viên trường lên văn phòng ban chỉ huy đóng ở trên đồi xem phim. Ai cũng hăm hở vì ban đêm ở lại thị trấn chẳng có gì giải trí . Phòng chiếu phim đặt máy chiếu và tấm màn trắng trong phòng hành quân dẹp gọn. Tưởng chiếu cho thầy cô giáo xem phim gì hay ho, mấy ông cố vấn Mỹ đem mấy phim dung tục ra chiếu. Hầu hết cô giáo đỏ mặt bỏ ra ngoài ngắm sao. Tôi đi theo. Đứng bên nàng trên đồi cao nhìn ra xa, dưới ánh sáng trăng mười sáu, vùng quê Đại Lộc tít tắp tầm nhìn đang yên bình và tỉnh lặng. Có ai ngờ, trong không gian đó ngầm chứa một hỏa diệm sơn sôi sục lửa chiến tranh.
Hoạt động sôi nổi nhất trong mùa hè 1973 của nhà trường là “Tuần lễ sinh hoạt học đường” do Sở Giáo Dục Quảng Nam tổ chức ở Hội An. Trường Đại Lộc tham gia hầu hết sinh hoạt trong tuần lễ đó. Hai chương trình văn nghệ, trường Đại lộc tham gia với hợp ca “ Những dòng sông chia rẽ” của Phạm Duy,liên khúc “ Ta phải thầy mặt trời, Chính chúng ta phải nói hòa bình và Cánh đồng hòa bình” của Trịnh Công Sơn đều do tôi tập. Đơn ca “Thương quá Việt Nam” của Phạm Thế Mỹ do Trương thị Nữ hát đơn ca do cô Nhung tập. Một vũ điệu dân tộc do Hoàng Mai biên đạo và tập cho các em tuyển chọn từ nữ sinh đệ tam. Cùng tham gia tập cho các em có Trần Danh sau này thành nhạc sĩ nổi tiếng của Quảng Nam- Đà Nẵng, với bút danh Trần Ái Nghĩa. Những bài hát và điệu múa đều nhằm vào cùng một chủ đề là “ Quê hương và khát vọng hòa bình”
Trường còn tham dự thi báo tường . Mỗi trường được phân một phòng triển lãm ở trường Trần Quý Cáp. Quanh tường gian phòng triển lãm treo tranh của tôi và các sản phẩm thủ công của học sinh. Giữa phòng trưng bày các sản vật nông nghiệp địa phương Đại Lộc. Mấy quả bí to quá cở đặt trên quầy khiến ai vào xem cũng trầm trồ khen ngợi.
Trong dịp này,trường còn tham gia giải bóng tròn học sinh, mang về cho trường giải nhì toàn tỉnh.
Những đóng góp của trường Đại lộc vào tuần lễ sinh hoạt học đường đó để lại tiếng vang và sự ngưỡng mộ trong lòng những người tham dự và Ty Giáo Dục Quảng Nam.
Mấy cái giấy khen của Ty giáo dục gửi về trường đánh giá cao về điều đó.
Nhân có đông đủ giáo sư của trường cùng về Hội An tham dự tuần lễ sinh hoạt học đường, ông Tập liên hệ bên chỉ huy của Giang Đoàn Hải Quân đóng ở Hội An xin tàu ra chơi ngoài Cù Lao Chàm hai ngày một đêm. Đứng trên boong tàu,lần đầu trong đời chúng tôi thấy những đàn cá chuồn từ dưới làn nước biển xanh vọt lên không trung rồi vổ cánh sành sạch bay xa hàng chục mét trước khi đáp xuống nước.
Sau phần lửa trại và ăn tối,thầy cô giáo tùy nghi bất kể nam nữ, nằm thành một dãy dài trên bãi cát ven biển . Tôi nằm bên nàng nghe sóng biển vổ bờ xào xạc, nhìn khung trời đầy sao, cảm nhận sự bình yên quý giá và lòng lâng lâng một cảm xúc diệu vợi. Ghé tai nàng tôi nói nhỏ : “ Đêm tân hôn của hai đưa mình, sao khách khứa vào ngủ trong phòng tân hôn đông quá, không làm ăn chi được” . Nàng hứ lên một tiếng: “ Anh chỉ ưa nói bậy,mang tiếng chết!”
…Năm 1976, tôi nhận được thiệp hồng của Hồng và Triết, hai người bạn cùng dạy ở trường Đại Lộc. Luôn tiện vào Đà Nẵng theo học mấy ngày chương trình cập nhật sách giáo khoa, tôi tham dự lễ cưới. Gặp tôi nàng vui vẻ hồn nhiên như thuở trước. Tôi đạp xe chở nàng lên nhà Triết. Tiệc cưới tổ chức tại nhà đơn giản mà ấm cúng. Những người bạn xưa thân thiết nay gặp lại chuyện trò rôm rả, vui vẻ và thân tình vô cùng.
Chở nàng về nhà, thấy giờ đã muộn, tôi bịn rịn từ giả nàng. Nàng cầm ngón tay trỏ của tôi vuốt nhẹ lên ngón tay đeo nhẫn của nàng. Một chiếc nhẫn. Tôi hiểu ý. Nàng đã đính hôn.
…Năm 1984, trên chuyến tàu lửa Sài gòn- Huế tồi tàn, tôi tình cờ gặp lại gia đình Hoàng Mai. Cả gia đình theo bác trai vào Sài gòn, chỉ có Mai theo chồng ở lại Đà nẳng. Toa tàu tối om soi nhờ nhờ bằng hai bóng đèn vàng hiu hắt. Vây mà Lan, em gái của Mai vẫn nhận ra tôi.Hỏi thăm nhau một hồi với bác trai, Lan kéo tôi riêng ra hỏi nhỏ: “ Anh có nhắn chi với chị Mai hay không?” Tôi đáp: “ Cho anh gửi lời thăm chị Mai. Em nhắn với chị Mai là anh còn ghét chị Mai nhiều, nhiều lắm. Ghét hoài”
* *
Năm 2000, ông Phan Thế Tập, trước đây là hiệu trưởng trường Đại Lộc mời vợ chồng tôi dự đám cưới con gái út tại nhà hàng New World, Sài Gòn. Một không gian tiệc cưới cực kỳ sang trọng. Ngoài những lễ tiết tân hôn và ban nhạc nhẹ chơi những bản nhạc tiết tấu nhẹ nhàng, hai gia đình còn mời khách lên góp vui trong tiệc cưới. Ông Tập giới thiệu tôi với những lời lẽ đầy cảm kích của người “tha phương ngộ cố tri”. Tôi cũng nể tình lên hát tặng cô dâu chú rể bài hát “ Ngậm ngùi” của Phạm Duy, phổ thơ Huy Cận nhưng tôi đặt tựa mới cho phù hợp không gian đám cưới với nhan đề là “ Anh hầu quạt đây”.
Một người thanh niên trắng trẻo,cao ráo, đẹp trai đến bên chào tôi lễ phép : “Xin lỗi, bác là bác Đoàn, người Huế, trước đây dạy Đại Lộc?” “ Vâng, có gì không cháu?” “ Bác hát hay quá! Con ngưỡng mộ bác nên xin bác cho con chụp chung một bức ảnh kỷ niệm”. Tôi không biết anh ta nghe đâu và tôi có tiếng tăm gì hay ho mà lại nói là ngưỡng mộ!Anh ta đến mời hai vợ chồng ông Tập và vợ chồng con gái ông Tập đến cùng chụp tấm ảnh chung. “ Bác cho con xin địa chỉ nhà để con gửi hình tặng bác”. Ông Tập giới thiệu: “ Cháu Tâm đây, bạn con gái tui, cùng học trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng. Cháu ở Mỹ về, luôn dịp tui mời cháu dự tiệc cưới con tui.”
Tôi ghi vội địa chỉ của mình trên tờ giấy thực đơn xé ra.
* *
Gần hai tháng sau, nhân viên bưu điện chuyển đến tận nhà thư bảo đảm từ Houston, Texas ở Mỷ gửi về. Người gữi là Mai Tâm. Mấy tấm ảnh chụp trong lễ cưới con gái anh Tập gửi kèm theo một lá thư và một tờ giấy xếp hình như cánh thiệp đã ngã màu vàng ố thời gian. Nét chữ quen, tờ giấy cũng quen. Tôi sững sờ nhìn hình trang trí hoa mai và bài thơ “vị tình lai khứ nhất chi mai”. Là Nàng.
Anh Đoàn,
Nhìn anh chỉ già đi một chút nhưng không khác mấy với “thuở ấy chúng mình” . Qua Mỹ lâu rồi, hôm nay thấy hình anh, em bồi hồi xúc động vô cùng. Bao kỷ niệm quý giá”một thời để yêu” trở về. Những thước phim đứt quãng nay kết lại thành một chuỗi ân tình không dứt. Anh nhìn kỹ cháu Tâm xem thử có gì lạ? Nhớ bài không tên số hai anh hay hát cùng em không?Đời một người con gái ước mơ đã nhiều, trời cho không được mấy, đến khi lấy chồng chỉ còn mối tình mang theo.
Bên dưới những dòng viết ngắn ngủi gợi nhớ ấy ghi mấy chữ đều viết hoa nắn nót như thói quen của nàng:” Người Dưng Khác Họ”.
Ngắm kỹ các hình chụp trong đám cưới con anh Tập, tôi nhận ra một điều kỳ lạ. Hai khuôn mặt có nét giống nhau thật. Hèn gì trong thư nàng hỏi tôi, có lẽ nàng nhận ra điều ấy.
Thuở ban đầu lưu luyến ấy, tôi hay hát đùa “Người dưng khác họ,chẳng nọ thì kia”. Chưa từng có chuyện nọ chuyện kia gì giữa hai đứa ! Cũng không có chuyện “ngày nào ân cần trao thân” như lời hát trong bài không tên số hai của Vũ Thành An.
Lòng tôi chùng xuống. Tình nàng sâu đậm đến thế ư?
Tôi ngậm ngùi nhớ “ người dưng khác họ” trong lần gặp gở đầu tiên khi nàng tới trường nhận nhiệm sở và những ký ức rời rạc nhưng kỹ niệm sắc nét trong quãng thời gian hai đứa yêu nhau.
Tôi hát thầm :
Quạ kêu nam đáo nữ phòng,
Người dưng khác họ, quặn lòng nhớ thương.
Lê Duy Đoàn,
Sài Gòn, 10/10/2013
Stephen P. Cohen và Robert Ward, The Diplomat, 21 tháng Tám 2013
Trần Ngọc Cư dịch
Hiện nay, Đông Á có vẻ hấp dẫn hơn đối với Nhà Trắng. Nhưng những động cơ đích thực là gì?
Kể từ khi chiến lược “xoay trục” hướng về châu Á của Mỹ được công bố năm 2011, một cuộc tranh luận sôi nổi đã diễn ra về nội hàm, về những hiệu ứng tiềm năng của nó đối với quan hệ Mỹ-Trung, và gần đây về nghi vấn là, liệu chiến lược này sẽ thực sự diễn ra hay không.
Động lực đưa đến chiến lược xoay trục bề ngoài có vẻ rõ ràng: “trọng tâm” toàn cầu đang chuyển dịch về khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và Hoa Kỳ cần phải đáp ứng tình thế mới. Chúng tôi [tác giả bài viết] tranh luận rằng động cơ địa chiến lược (geostrategic motivation) này không phải là lý do duy nhất đưa đến việc xoay trục: còn có một lý do quan trọng không kém, đó là tham vọng của Tổng thống Obama muốn đánh đổi một cuộc chiến lâu dài, tốn kém, và ngày càng mất lòng dân tại Afghanistan, và cả sự tập trung nỗ lực to lớn tại Trung Đông đầy bất ổn và bạo loạn, để nhận lấy sự ổn định tương đối của khu vực Đông Á.
Tham vọng muốn ra khỏi Afghanistan của Tổng thống Obama có thể thấy được trong cách tiếp cận của ông đối với cuộc chiến tại Iraq. Mười một năm về trước, khi còn là một thượng nghị sĩ cấp tiểu bang, Barack Obama đã lao vào sự nghiệp chính trị cấp quốc gia bằng một bài diễn văn, cảnh báo rằng hành động xâm lăng Iraq sắp diễn ra là “liều lĩnh”, vô trách nhiệm, và giản dị là “ngu đần”. Saddam Hussein không đặt ra một đe dọa trực tiếp nào cho Hoa Kỳ, Obama tranh luận, và cuộc chiến này sẽ đòi hỏi một sự chiếm đóng “lâu dài bất định, với tổn thất bất định, và với những hậu quả bất định”. Bài hát của nhóm nhạc rock độc lập Tô Cách Lan, Camera Obscura, diễn tả đầy đủ chiến lược nói trên: “chúng ta hãy rút khỏi nước này”.
Mặc dù Tổng thống Obama không bao giờ lên tiếng chống đối cuộc chiến tại Afghanistan, nhưng quan điểm của ông hiện nay về cuộc xung đột này là rất giống với hình ảnh mà ông đã có về nước Iraq trước khi chiến tranh diễn ra: phe Taliban, tự nó, không đặt ra một đe dọa trực tiếp nào cho an ninh nội địa Mỹ, và sau 12 năm chiếm đóng, chúng ta vẫn còn đối diện với một cuộc nội chiến tại Afghanistan với thời gian dài bất định, mức tốn kém bất định, và những hậu quả bất định. Giải pháp? Chúng ta phải rút ra càng sớm càng tốt miễn là không đưa đến một sự sụp đổ toàn bộ Chính phủ Afghanistan.
Nói cho ngay, Afghanistan không phải là nước duy nhất mà Hoa Kỳ bận tâm tại Trung Đông, nhất là nếu chúng ta vẽ một đường kéo dài từ Pakistan đến tận Morocco, như tác giả Vali Nasr đã làm [trong một bài báo của tạp chí The Diplomat]. Pakistan, quốc gia có vũ khí hạt nhân lớn thứ năm trên thế giới, nhưng có một chính phủ gần như bất lực và đang hỗ trợ phe Taliban tại Afghanistan trong khi Pakistan cũng không mấy thành công trong việc trấn áp đám Hồi giáo vũ trang tại nước mình; Iran đang từng bước tiến đến việc thủ đắc vũ khí hạt nhân và không chịu đáp ứng trước sức ép của Mỹ; và Mỹ gần như bất lực trong việc chi phối các biến cố tại Syria và Ai Cập. Trong 10 năm qua, Hoa Kỳ không mấy thành công tại khu vực Trung Đông. Vì thế, dưới một góc độ chính trị, việc chuyển trọng tâm chiến lược là hoàn toàn dễ hiểu.
Nhưng tại sao lại “tái quân bình lực lượng” hướng về châu Á, thay vì chỉ giản dị là đưa quân về nước? Có một câu trả lời mang giọng điệu địa chiến lược thường thấy: chúng ta phải duy trì đồng minh và lợi ích kinh tế của chúng ta ở vùng này và giúp đảm bảo sự trỗi dậy của Trung Quốc được hòa hoãn chừng nào hay chừng ấy. Điều này có thể đúng trong 5 năm tới, nhưng hiện nay có những lý do chính trị có lẽ còn quan trọng hơn thế.
Một là, mặc dù Chính quyền Obama dị ứng với các cuộc chiến chống nổi dậy đầy tốn kém, nhưng vị tổng thống này rõ ràng tin tưởng vào một chính sách đối ngoại có mục đích duy trì ảnh hưởng toàn cầu của Mỹ, và sẵn sàng theo đuổi các cuộc can thiệp tương đối an toàn về mặt chính trị, không trực tiếp đe dọa mạng sống người Mỹ, như chiến dịch không kích của NATO tại Libya. Chiến lược xoay trục lại càng an toàn hơn nữa: mặc dù có nhiều căng thẳng quốc tế đang diễn ra tại châu Á, nhưng cái khả năng để lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ vừa được triển khai tại Australia hay các căn cứ rộng lớn của Mỹ tại Hàn Quốc hay Nhật Bản bị tấn công là gần như không có.
Hai là, sự tham gia của Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương cho phép quân lực Mỹ vận dụng được các thế mạnh của mình: đó là các lực lượng không quân và hải quân đang hướng vào các cường quốc quan trọng. Mỹ có nhiều lợi thế rất to lớn về không lực và hải lực hơn bất cứ một quân đội nào khác, nhưng trong 12 năm tham dự các cuộc chiến phi qui ước trên bộ vừa qua, việc phân bổ các nguồn lực quốc phòng đã đi ra ngoài sự tập trung truyền thống [vào không-hải lực] nói trên, với ngân sách của Không quân và Hải quân rơi từ 54% toàn bộ ngân sách quốc phòng năm 2000 xuống chỉ còn 41% năm 2008. Hiện nay, mặc dù Bộ binh và Lính thủy đánh bộ đang đối diện việc cắt giảm ngân sách nghiêm trọng, nhưng ngân sách của Hải quân và Không quân thì đang được giữ nguyên. Và mặc dù các khả năng chống tiếp cận/từ chối địa bàn [A2/AD capabilities] của Trung Quốc ngày càng tăng trưởng, làm giảm sút sự không chế quân sự của Mỹ trong lãnh vực này, nhưng một cuộc đọ sức về hải quân và không quân vẫn hấp dẫn hơn một cuộc xung đột kéo dài trên bộ, đối với một vị tổng thống và một quần chúng Mỹ mỏi mệt vì chiến tranh. Hơn nữa, đại bộ phận quân đội Mỹ nói chung không còn muốn tiếp tục chiến đấu trong những cuộc chiến làm tiêu hao nguồn lực và làm nản chí mọi người như tại Iraq và Afghanistan, và vì thế đang hồ hởi trở lại một khu vực đầy rẫy những đồng minh đích thực như Hàn Quốc, Philippines, và Nhật Bản.
Nhưng tại sao cái động lực nằm sau chiến lược xoay trục hướng về châu Á lại có ý nghĩa quan trọng, nếu nó đã và đang được thực hiện? Ấy là vì, chiến lược xoay trục càng tùy thuộc vào các xác tín cá nhân của Tổng thống Obama, vào nhu cầu tạo một lá chắn chính trị cho việc rút quân khỏi Afghanistan và vào những nguyện vọng nhất thời của công luận Mỹ, thì chiến lược này lại càng dễ dàng biến mất vào giờ phút Tổng thống Obama rời Nhà Trắng, hoặc ngay cả trước đó. Đây là một vấn đề, vì chiến lược xoay trục có mục đích trấn an các đồng minh của Mỹ tại châu Á về sự hiện diện liên tục của Mỹ và quản lý sự trỗi dậy từng bước của Trung Quốc – như vậy, một cuộc xoay trục ngắn hạn, hay thậm chí một cuộc xoay trục mà các lãnh đạo châu Á cho là ngắn hạn, không thể đạt được những mục tiêu này. Chiến lược xoay trục thường xuyên bị mô tả là một con cọp giấy, và nếu việc xoay trục này là để rút quân ra khỏi Afghanistan hơn là để duy trì một sự hiện diện lâu dài của Mỹ tại châu Á, thì sự chỉ trích này sẽ được chứng minh là đúng.
Nếu có một cái giá mà Mỹ phải trả, việc này sẽ không diễn ra trong nhiệm kỳ của Obama. Sự bành trướng của chủ nghĩa cực đoan đến tận Pakistan, rồi lan qua Ấn Độ – một phiên bản mới của thuyết đô-mi-nô – có thể bị coi là cường điệu trong tình hình hiện nay, nhưng đó là một kịch bản hợp lý cần phải xét đến. Những cuộc khủng hoảng giữa Ấn Độ và Pakistan cũng có thể tái diễn, và chúng ta trong tư cách một chính phủ vẫn còn tin rằng Pakistan thuộc về khu vực Af-Pak và Trung Đông, chứ không thuộc về Nam Á. Thật là tự nhiên khi nghĩ rằng “Chúng ta hãy rút quân ra khỏi nước này”, nhưng đó cũng là một đường lối lãnh đạo yếu kém. Câu hỏi thật sự cần phải đặt ra là: hai cường quốc đang trỗi dậy, Trung Quốc và Ấn Độ, có thể sẽ dùng nguồn lực của mình để khai thác sự yếu kém, mong manh của Trung Đông và Pakistan như thế nào? Đây là một câu hỏi mà chính quyền này đã nhắm mắt bỏ qua, khi có ý định thực hiện một thay đổi quan trọng trong chiến lược của Mỹ. Chắc chúng ta sẽ phải chờ đợi một vị tổng thống khác mới có thể thấy câu hỏi này được nêu lên thêm một lần nữa.
S. P. C. & R. W.
Stephen P. Cohen là một nhà nghiên cứu thâm niên về Chính sách Đối ngoại tại Viện Brookings ở Washington, DC. Robert Ward là Nghiên cứu sinh nội trú về các vấn đề Nam Á tại Viện Brookings
Xin chia sẻ với quí vị một số cảm nhận về quê hương sau những chuyến về thăm gần đây.
Mỗi chuyện nhỏ,một bài học.
Jerry Muller, Foreign Affairs, tháng Ba/tháng Tư, 2013
Trần Ngọc Cư dịch
Lời người dịch: Vì bài tiểu luận “Capitalism and Inequality” (Chủ nghĩa tư bản và Tình trạng bất bình đẳng) của Giáo sư Sử học Jerry Muller, Đại học Catholic University of America, dài đến 20 trang, chúng tôi chỉ xin trích dịch phần của bài tiểu luận nói về vai trò của gia đình và cộng đồng trong việc xây dựng vốn con người. Tựa đề là của người dịch.
Trong môi trường toàn cầu hóa, tài chính hóa, hậu công nghiệp ngày nay, vốn con người (human capital) là quan trọng hơn bao giờ cả trong việc quyết định những cơ may trong đời. Sự kiện này cũng làm cho vai trò của gia đình trở nên quan trọng hơn trước, vì như mọi thế hệ xã hội học lại cứ phát hiện lại một điều cũ rích (khiến chính họ cũng phải lấy làm tiu nghỉu), đó là các nguồn lực do gia đình truyền lại cho con cái có xu thế định đoạt rất nhiều cho sự thành công ở nhà trường và nơi làm việc. Như chuyên gia kinh tế Friedrich Hayek đã vạch ra nửa thế kỷ trước trong cuốn The Constitution of Liberty (Cơ cấu của Tự do), trở ngại chính cho sự bình đẳng về cơ hội là ta không thể tìm ra được một cơ chế tốt hơn để thay thế những vị phụ huynh thông minh hay những gia đình biết bồi dưỡng tình cảm và văn hóa cho con cái. Theo một nghiên cứu gần đây của hai nhà kinh tế Pedro Carneiro và James Heckman, “Những khác biệt về trình độ kỹ năng nhận thức (cognitive skills) và các kỹ năng không thuộc lãnh vực nhận thức (noncognitve skills)(*) xuất hiện sớm trong đời người và tồn tại mãi. Có chăng là, học vấn chỉ đào sâu thêm những khác biệt đầu đời này mà thôi”.
Vốn di truyền nằm dưới nhiều dạng thức khác nhau: cơ cấu gien (genetics), sự nuôi dưỡng trước và sau khi đứa trẻ sinh ra, và các định hướng văn hóa được truyền đạt trong gia đình. Hẳn nhiên, tiền bạc cũng quan trọng, nhưng thường không quan trọng bằng những yếu tố gần như không liên quan đến tiền bạc này. (Sự hiện hữu nổi bật của sách báo trong một hộ gia đình là dấu hiệu con cái đạt điểm cao ở học đường, chứ không phải là lợi tức của gia đình đó). Qua thời gian, nếu xã hội được tổ chức dựa vào chế độ nhân tài, vốn di truyền gia đình và phần thưởng thị trường sẽ có có xu thế gắn bó với nhau.
Những cha mẹ có học vấn thường có khuynh hướng đầu tư thêm thì giờ và năng lực cho việc chăm sóc con cái, thậm chí khi cả cha lẫn mẹ đều bận việc ở sở làm. Và những gia đình có vốn con người phong phú có khả năng sử dụng hiệu quả hơn những phương tiện giáo dục cải tiến mà chủ nghĩa tư bản đương đại cống hiến (chẳng hạn tiềm năng bồi dưỡng tri thức qua Internet) đồng thời chống lại những cạm bẫy tiềm ẩn (như xem TV và chơi các trò chơi vi tính).
Sự kiện này ảnh hưởng lên khả năng của trẻ em trong việc vận dụng nền giáo dục chính thức ở nhà trường, một nền giáo dục ít ra cũng có tiềm năng ngày càng mở rộng để đón tiếp mọi người, bất chấp địa vị kinh tế hay sắc tộc. Vào đầu thế kỷ 20, chỉ có 6,4 % trẻ em Mỹ hoàn tất bậc trung học, và chỉ một trong 400 người tiếp tục lên đại học. Như vậy, thời bấy giờ một bộ phận dân chúng rất đông đảo có khả năng trí óc, nhưng không có cơ hội, để theo đuổi các bằng cấp cao. Ngày nay, tỉ số học sinh Mỹ hoàn tất bậc trung học là khoảng 75% (xuống từ đỉnh cao 80% năm 1960), và khoảng 40% thanh niên đăng ký theo học đại học.
Tờ The Economist gần đây đã nhai lại một quan niệm lỗi thời: “Trong một xã hội có cơ hội đồng đều rộng rãi, địa vị của cha mẹ trên thang lợi tức sẽ không ảnh hưởng mấy lên nấc thang lợi tức của con cái họ về sau”. Nhưng sự thật là, càng có cơ hội đồng đều do cơ chế tạo ra bao nhiêu, thì các di sản thuộc vốn con người của gia đình lại càng quan trọng bấy nhiêu. Như nhà khoa học chính trị Edward Banfield nhận xét một thế hệ trước đây trong cuốn The Unheavenly City Revisited [một tác phẩm duyệt xét lại các vấn đề đô thị Mỹ – TNC], “Toàn bộ nền giáo dục luôn ưu đãi trẻ em thuộc giai cấp trung lưu hoặc thượng lưu, vì ở vào giai cấp trung lưu hay thượng lưu có nghĩa là hưởng được những phẩm chất tốt đẹp giúp cho việc học tập đặc biệt dễ dàng”. Những cải tiến về phẩm chất trường học có thể cải thiện thành quả giáo dục nói chung, nhưng chúng có xu thế làm gia tăng, chứ không giảm bớt, khoảng cách thành đạt giữa con em xuất thân từ những gia đình có vốn con người chênh lệch nhau. Những nghiên cứu gần đây với mục đích chứng minh rằng tại Hoa Kỳ ngày nay sự thăng tiến xã hội giữa các thế hệ (intergenerational mobility) ít diễn ra hơn so với trong quá khứ (hay so với tại một số quốc gia châu Âu), đã không thấy được rằng sự kiện này thật ra có thể chỉ là sản phẩm trớ trêu [của các nỗ lực chính phủ] qua nhiều thế hệ nhằm gia tăng bình đẳng về cơ hội. Và trong khía cạnh này, có thể Hoa Kỳ chỉ là nước dẫn đầu trong các xu thế cũng được tìm thấy tại các nước tư bản tiên tiến khác.
Gia đình không phải là cơ chế xã hội duy nhất có một ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển vốn con người và đối với sự thành công nhiên hậu trong thị trường; các nhóm cộng đồng, như các cộng đồng tôn giáo, chủng tộc và dân tộc cũng có một ảnh hưởng tương tự. Trong cuốn sách xuất bản năm 1905, The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism (Đức lý Tin lành và Tinh thần Tư bản chủ nghĩa), nhà xã hội học Max Weber nhận xét rằng trong các khu vực tôn giáo khác nhau, người Tin Lành làm kinh tế giỏi hơn người Công giáo, và người theo Giáo phái Calvin (Calvinists) thành công hơn người theo Giáo phái Luther (Lutherans). Weber đưa ra một một lý giải mang tính văn hóa cho sự khác biệt này, một sự khác biệt có gốc rễ trong những khuynh hướng tâm lý do các đức tin khác nhau này tạo ra. Vài năm sau, trong cuốn The Jews and Modern Capitalism (Người Do Thái và Chủ nghĩa Tư bản Hiện đại), Werner Sombart, người đồng thời với Weber, đưa ra một lý giải khác hơn cho sự thành công của các nhóm khác nhau, bằng cách một phần dựa vào các khuynh hướng văn hóa và một phần dựa vào các khuynh hướng chủng tộc. Và đến năm 1927, Schumpeter, một đồng nghiệp trẻ hơn của họ đã đặt tựa đề cho một bài tiểu luận quan trọng là “Giai cấp xã hội trong một môi trường thuần chủng (ethnically homogeneous)”, vì ông đinh ninh rằng trong một bối cảnh hợp chủng, các mức độ thành đạt thay đổi theo từng sắc dân, chứ không chỉ theo giai cấp xã hội mà thôi.
Những lý giải được đưa ra cho những mô hình nói trên là không quan trọng bằng thực tế là, mức thành đạt khác nhau giữa các nhóm vẫn là một đặc điểm bất diệt trong lịch sử của chế độ tư bản, và những chênh lệch này vẫn tiếp tục tồn tại ngày nay. Tại Hoa Kỳ đương đại, chẳng hạn, người châu Á (đặc biệt khi không kể đến các sắc dân hải đảo Thái Bình Dương) có xu thế thành đạt hơn người da trắng bản xứ (non-Hispanic whites), người da trắng bản xứ lại thành đạt hơn người da trắng gốc châu Mỹ La tinh (Hispanic whites), người châu Mỹ La tinh lại thành đạt hơn người Mỹ gốc châu Phi [người da đen]. Đây là sự thật dù ta nhìn vào sự thành đạt về học vấn, vào lợi tức, hay nhìn vào các loại hình gia đình, như các trường hợp sinh con ngoại hôn chẳng hạn.
Những quốc gia Tây Âu (và nhất là những quốc gia Bắc Âu), với những trình độ bình đẳng kinh tế còn cao hơn Mỹ nhiều, thông thường là những nước có những khối dân thuần chủng hơn Mỹ. Khi những đợt dân nhập cư gần đây làm cho nhiều nước tiên tiến hậu công nghiệp giảm bớt tính thuần chủng so với trước, chúng cũng có vẻ phân hoá giai cấp theo các đường ranh cộng đồng, với một số nhóm dân nhập cư biểu hiện những mô hình thành công hơn khối dân cư hiện hữu từ trước và một số nhóm khác lại ít thành công hơn. Tại Vương quốc Anh chẳng hạn, con cái những người Trung Hoa và người Ấn Độ nhập cư thường thành công hơn dân bản xứ, trong khi con cái của người da đen từ vùng Ca-ri-bê (Caribbean blacks) và người Pakistan thường thua kém hơn. Tại Pháp, con cái của người Việt Nam nhập cư thường thành công hơn con cái người bản xứ, và con cái của các sắc dân Bắc Phi lại thua kém hơn. Tại Israel, con cái của người Nga nhập cư thường thành công hơn người bản xứ, trong khi con cái của những người nhập cư từ Ethiopia lại thua kém hơn. Tại Canada, con cái người Trung Hoa và người Ấn Độ thường thành công hơn con cái dân bản xứ, trong khi con cái của dân nhập cư từ vùng Ca-ri-bê và châu Mỹ La tinh lại thua kém hơn. Phần lớn sự chênh lệnh trong mức độ thành công này có thể được giải thích bằng thành phần giai cấp và quá trình đào tạo khác nhau của các nhóm nhập cư ngay tại cố quốc của họ. Nhưng vì bản thân những cộng đồng nhập cư này đã đóng vai trò là nơi cưu mang vốn con người, những mô hình về sự thành đạt này có khả năng và vẫn còn tồn tại qua thời gian và không gian.
Trong trường hợp Hoa Kỳ, chính sách di trú của nước này đã đóng một một vai trò thậm chí còn lớn hơn trong việc làm nghiêm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng, vì tính năng động kinh tế, sự cởi mở văn hóa, và địa thế của nước Mỹ có xu thế thu hút một số người tài giỏi và thông minh nhất thế giới lẫn một số người ít học nhất thế giới. Sự thể này đã nâng chóp bu của thang kinh tế lên cao và hạ phần dưới cùng xuống thấp hơn nữa.
Sự nhìn nhận ngày càng rộng lớn về tình trạng bất bình đẳng và phân hóa giai cấp xã hội đang gia tăng tại các nước hậu công nghiệp đương nhiên đã đưa đến các cuộc thảo luận về những điều có thể thực hiện để đối phó vấn đề này. Trong bối cảnh của Hoa Kỳ, câu trả lời đến từ hầu hết mọi thành phần xã hội thật là đơn giản: giáo dục.
Một chủ đề của lý luận này tập trung vào giáo dục đại học. Theo đó, hiện nay có một khoảng cách đang gia tăng về những cơ may trong đời giữa những người tốt nghiệp đại học và những người không tốt nghiệp, và vì thế cần phải có càng nhiều người vào đại học càng tốt. Đáng tiếc là, mặc dù một tỉ lệ phần trăm người Mỹ cao hơn trước đang theo đuổi bậc đại học, nhưng họ không nhất thiết học hỏi nhiều hơn. Một con số ngày càng đông đảo không đủ khả năng học tập ở cấp đại học, nhiều người phải rời ghế nhà trường trước khi hoàn tất học vị, và nhiều người khác nhận những bằng cấp chỉ phản ánh những tiêu chuẩn thấp hơn trình độ mà người ta thường cho là một cấp bằng đại học phải có.
Trong khi đó, mức chênh lệch đáng kể nhất trong sự thành tựu ở học đường diễn ra sớm hơn bậc đại học, được biểu hiện trong tỉ lệ hoàn tất bậc trung học, và những chênh lệnh quan trọng trong thành tích học tập (giữa các giai cấp xã hội khác nhau và giữa các sắc tộc khác nhau) còn xuất hiện sớm hơn, ngay từ cấp tiểu học. Do đó, một chủ đề thứ hai của cuộc tranh luận giáo dục tập trung vào bậc tiểu học và trung học. Những phương thức chữa trị được đề xuất ở đây gồm có: cung cấp thêm tiền cho các trường học, cho phụ huynh nhiều lựa chọn hơn, kiểm tra bài vở của học sinh thường xuyên hơn, và cải thiện hiệu năng của giáo viên. Thậm chí nếu một số hoặc toàn bộ các biện pháp này là đáng mong muốn vì những lý do khác đi nữa, không một biện pháp nào chứng tỏ đã giảm bớt khoảng cách giữa các học sinh và giữa các nhóm xã hội – vì bản thân nền giáo dục chính thức ở nhà trường (official schooling) đóng một vai trò tương đối nhỏ bé trong việc tạo ra hoặc duy trì các khoảng cách thành đạt (achievement gaps).
Thật ra những khoảng cách này có nguồn gốc trong những mức vốn con người khác nhau (different levels of human capital) mà trẻ em thừa hưởng khi chúng bắt đầu đi học – điều này đã dẫn đến một chủ đề thứ ba của cuộc tranh luận giáo dục, tập trung vào việc chăm sóc tuổi thơ ấu của trẻ em sớm hơn và tích cực hơn. Những đề xuất ở đây thường dẫn đến việc đưa trẻ em ra khỏi môi trường gia đình và đặt chúng vào những bối cảnh mang tính cơ chế (institutional settings) càng dài thời gian càng tốt (như chương trình Head Start, Early Head Start /cho trẻ em đi học sớm) hay thậm chí cố gắng tái xã hội hoá toàn bộ những khu dân sinh (như trong dự án Khu vực của Trẻ em Harlem/the Harlem Children’s Zone project). Có một số trường hợp thành công riêng lẻ với những chương trình này, nhưng không ai quả quyết là chúng có thể được nhân rộng trên một qui mô lớn hơn. Nhiều chương trình cho thấy kết quả ngắn hạn về khả năng nhận thức, nhưng hầu hết những thành quả này có xu thế mai một qua thời gian, và những thành quả còn sót lại thường là không đáng kể. Có một điều khả tín hơn là, những chương trình này giúp trẻ em trau dồi các kỹ năng không thuộc lãnh vực nhận thức và những đặc điểm nhân cách có thể dẫn đến thành công kinh tế tương lai – nhưng với một cái giá và nỗ lực đầu tư đáng kể, vì phải sử dụng các nguồn lực được rút tỉa từ những bộ phận thành công hơn trong xã hội (và như thế làm suy yếu các nguồn lực mà họ có thể sử dụng) hay các nguồn lực được chuyển từ các dự án tiềm năng khác.
Dù với tất cả những lý do này, tình trạng bất bình đẳng trong các xã hội tư bản tiên tiến đang có vẻ vừa gia tăng vừa không tránh khỏi, chí ít trong giai đoạn hiện nay. Thật vậy, một trong những khám phá thẳng thắn nhất của ngành nghiên cứu khoa học xã hội đương đại là, một khi sự cách biệt giữa các gia đình có lợi tức cao và những gia đình có lợi tức thấp đã gia tăng, thì những cách biệt trong sự thành đạt về học vấn và công ăn việc làm giữa con cái họ lại càng gia tăng hơn nữa.
J. M.
Chú thích:
(*)(1) Ở một đoạn khác trong bài tiểu luận, không được trích dịch ở đây, tác giả đã định nghĩa cognitive skills là “sự nhanh trí, khả năng suy luận và áp dụng các mô hình rút từ kinh nghiệm, và khả năng đối phó với tính phức tạp trí tuệ” và noncognitive skills là “các kỹ năng xã hội: tinh thần kỷ luật, đức tính kiên trì và tinh thần trách nhiệm” (TNC).
Bản tiếng Anh
THE FAMILY AND HUMAN CAPITAL
In today’s globalized, financialized, postindustrial environment, human capital is more important than ever in determining life chances. This makes families more important, too, because as each generation of social science researchers discovers anew (and much to their chagrin), the resources transmitted by the family tend to be highly determinative of success in school and in the workplace. As the economist Friedrich Hayek pointed out half a century ago in The Constitution of Liberty, the main impediment to true equality of opportunity is that there is no substitute for intelligent parents or for an emotionally and culturally nurturing family. In the words of a recent study by the economists Pedro Carneiro and James Heckman, “Differences in levels of cognitive and noncognitive skills by family income and family background emerge early and persist. If anything, schooling widens these early differences.”
Hereditary endowments come in a variety of forms: genetics, prenatal and postnatal nurture, and the cultural orientations conveyed within the family. Money matters, too, of course, but is often less significant than these largely nonmonetary factors. (The prevalence of books in a household is a better predictor of higher test scores than family income.) Over time, to the extent that societies are organized along meritocratic lines, family endowments and market rewards will tend to converge.
Educated parents tend to invest more time and energy in child care, even when both parents are engaged in the work force. And families strong in human capital are more likely to make fruitful use of the improved means of cultivation that contemporary capitalism offers (such as the potential for online enrichment) while resisting their potential snares (such as unrestricted viewing of television and playing of computer games).
This affects the ability of children to make use of formal education, which is increasingly, at least potentially, available to all regardless of economic or ethnic status. At the turn of the twentieth century, only 6.4 percent of American teenagers graduated from high school, and only one in 400 went on to college. There was thus a huge portion of the population with the capacity, but not the opportunity, for greater educational achievement. Today, the U.S. high school graduation rate is about 75 percent (down from a peak of about 80 percent in 1960), and roughly 40 percent of young adults are enrolled in college.
The Economist recently repeated a shibboleth: “In a society with broad equality of opportunity, the parents’ position on the income ladder should have little impact on that of their children.” The fact is, however, that the greater equality of institutional opportunity there is, the more families’ human capital endowments matter. As the political scientist Edward Banfield noted a generation ago in The Unheavenly City Revisited, “All education favors the middle- and upper-class child, because to be middle- or upper-class is to have qualities that make one particularly educable.” Improvements in the quality of schools may improve overall educational outcomes, but they tend to increase, rather than diminish, the gap in achievement between children from families with different levels of human capital. Recent investigations that purport to demonstrate less intergenerational mobility in the United States today than in the past (or than in some European nations) fail to note that this may in fact be a perverse product of generations of increasing equality of opportunity. And in this respect, it is possible that the United States may simply be on the leading edge of trends found in other advanced capitalist societies as well.
DIFFERENTIAL GROUP ACHIEVEMENT
The family is not the only social institution to have a major impact on the development of human capital and eventual success in the marketplace; so do communal groupings, such as those of religion, race, and ethnicity. In his 1905 book, The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism, the sociologist Max Weber observed that in religiously diverse areas, Protestants tended to do better economically than Catholics, and Calvinists better than Lutherans. Weber presented a cultural explanation for this difference, grounded in the different psychological propensities created by the different faiths. A few years later, in The Jews and Modern Capitalism, Weber’s contemporary Werner Sombart offered an alternative explanation for differential group success, based partly on cultural propensities and partly on racial ones. And in 1927, their younger colleague Schumpeter titled a major essay “Social Classes in an Ethnically Homogeneous Environment” because he took it for granted that in an ethnically mixed setting, levels of achievement would vary by ethnicity, not just class.
The explanations offered for such patterns are less important than the fact that differential group performance has been a perennial feature in the history of capitalism, and such differences continue to exist today. In the contemporary United States, for example, Asians (especially when disaggregated from Pacific Islanders) tend to outperform non-Hispanic whites, who in turn tend to outperform Hispanics, who in turn tend to outperform African Americans. This is true whether one looks at educational achievement, earnings, or family patterns, such as the incidence of nonmarital births.
Those western European nations (and especially northern European nations) with much higher levels of equality than the United States tend to have more ethnically homogeneous populations. As recent waves of immigration have made many advanced postindustrial societies less ethnically homogeneous, they also seem to be increasingly stratifying along communal lines, with some immigrant groups exhibiting more favorable patterns than the preexisting population and other groups doing worse. In the United Kingdom, for example, the children of Chinese and Indian immigrants tend do better than the indigenous population, whereas those of Caribbean blacks and Pakistanis tend to do worse. In France, the descendants of Vietnamese tend to do better, and those of North African origin tend to do worse. In Israel, the children of Russian immigrants tend to do better, while those of immigrants from Ethiopia tend to do worse. In Canada, the children of Chinese and Indians tend to do better, while those of Caribbean and Latin American origin tend to do worse. Much of this divergence in achievement can be explained by the differing class and educational backgrounds of the immigrant groups in their countries of origin. But because the communities themselves act as carriers and incubators of human capital, the patterns can and do persist over time and place.
In the case of the United States, immigration plays an even larger role in exacerbating inequality, for the country’s economic dynamism, cultural openness, and geographic position tend to attract both some of world’s best and brightest and some of its least educated. This raises the top and lowers the bottom of the economic ladder.
WHY EDUCATION IS NOT A PANACEA
A growing recognition of the increasing economic inequality and social stratification in postindustrial societies has naturally led to discussions of what can be done about it, and in the American context, the answer from almost all quarters is simple: education.
One strand of this logic focuses on college. There is a growing gap in life chances between those who complete college and those who don’t, the argument runs, and so as many people as possible should go to college. Unfortunately, even though a higher percentage of Americans are attending college, they are not necessarily learning more. An increasing number are unqualified for college-level work, many leave without completing their degrees, and others receive degrees reflecting standards much lower than what a college degree has usually been understood to mean.
The most significant divergence in educational achievement occurs before the level of college, meanwhile, in rates of completion of high school, and major differences in performance (by class and ethnicity) appear still earlier, in elementary school. So a second strand of the education argument focuses on primary and secondary schooling. The remedies suggested here include providing schools with more money, offering parents more choice, testing students more often, and improving teacher performance. Even if some or all of these measures might be desirable for other reasons, none has been shown to significantly diminish the gaps between students and between social groups — because formal schooling itself plays a relatively minor role in creating or perpetuating achievement gaps.
The gaps turn out to have their origins in the different levels of human capital children possess when they enter school — which has led to a third strand of the education argument, focusing on earlier and more intensive childhood intervention. Suggestions here often amount to taking children out of their family environments and putting them into institutional settings for as much time as possible (Head Start, Early Head Start) or even trying to resocialize whole neighborhoods (as in the Harlem Children’s Zone project). There are examples of isolated successes with such programs, but it is far from clear that these are reproducible on a larger scale. Many programs show short-term gains in cognitive ability, but most of these gains tend to fade out over time, and those that remain tend to be marginal. It is more plausible that such programs improve the noncognitive skills and character traits conducive to economic success — but at a significant cost and investment, employing resources extracted from the more successful parts of the population (thus lowering the resources available to them) or diverted from other potential uses.
For all these reasons, inequality in advanced capitalist societies seems to be both growing and ineluctable, at least for the time being. Indeed, one of the most robust findings of contemporary social scientific inquiry is that as the gap between high-income and low-income families has increased, the educational and employment achievement gaps between the children of these families has increased even more.
Lê Duy Đoàn
XĂM HƯỜNG
MỘT TRÒ CHƠI TAO NHÃ VÀ VUI VẺ TRONG NGÀY TẾT
CỦA NGƯỜI DÂN XỨ HUẾ VÀ CÁC XỨ CẬN HUẾ
Sáng mồng 7 tháng giêng năm Đinh Hợi, tôi đang chiên mấy miếng bánh tét thì nghe vợ tôi gọi với xuống từ lầu 1:” anh Đoàn ơi ! Xăm hường trong chương trình VTV1 của truyền hình VN”. Tôi vội bật TV, vừa kịp lúc phóng viên đang phỏng vấn 1 người dân sống ở phố cổ Hội An, người này bảo rằng trò chơi Xăm Hường là một trò chơi của người Tàu, được du nhập vào VN do người Minh Hương (Việt gốc Tàu) từ rất lâu. Cả phóng viên lẫn người được phỏng vấn đều sai, với một phát biểu trên phương tiện truyền thông dễ gây ra ngộ nhận. Phát biểu đó mang tính võ đoán và thiếu căn cứ.
Theo tôi, trò chơi Xăm Hường được bày ra để làm trò tiêu khiển trong nội cung Triều Nguyễn. Sau đó, các quan lại và những người trong Nguyễn Phước Tộc, mang trò chơi này ra ngoài cung và trò chơi trở nên phổ biến từ thành thị đến nông thôn Huế và Thừa Thiên.
Người dân các xứ Quảng (Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi) cũng có những gia đình chơi trò Xăm Hường nhưng rất ít. Những gia đình này có thể là người gốc Huế hoặc có dây mơ rễ má gì với người Huế. Hoặc giả, trong dòng tộc có người làm quan trong triều đình Huế, hoặc giả họ là bà con dâu rễ với người Huế.
Vào trong Nam hay ngoài Bắc, trò chơi này hoàn toàn lạ lẫm. Như vậy, trò chơi Xăm Hường ví như vết dầu loang, trò chơi từ cung đình Huế lan ra khắp Huế và Thừa Thiên rồi tỏa ra các vùng xứ Quảng, rồi thôi. Những vùng xa như Bình Định, Phú Yên trở vào đến Cà Mau, từ Quảng Bình trở ra Bắc hầu như chẳng ai biết trò chơi này.
Trở lại bài phỏng vấn về Xăm Hường trên VTV1, bảo rằng Xăm Hường có nguồn gốc từ Trung Quốc là không có căn cứ vì nếu vậy trò chơi phải để lại một dấu vết nào đó trong các tác phẩm văn học. Chẳng có dấu vết nào.
Nếu người Minh Hương đem trò chơi này du nhập vào Việt Nam thì không cứ gì có người Minh Hương ở Hội An chơi trò này mà người Minh Hương ở Chợ Lớn là một cộng đồng người Hoa rất rộng lớn lại không biết trò chơi này? Dòng họ Mạc Thiên Tích lập nghiệp ở Hà Tiên ắc cũng phải đem trò chơi thú vị này du nhập chứ sao lại không nhỉ?
Để chứng minh thêm trò chơi Xăm Hường phát sinh từ nội cung triều Nguyễn, tôi dẫn ra đây 2 chứng cứ:
Nếu phát sinh từ các triều vua trước ở Thăng Long, thì với mức thẩm thấu của trò chơi này, ít nhất là người ở Đông Đô Hà Nội phải có người biết.
Tên gọi trò chơi là tên gọi thuần Việt “XĂM HƯỜNG”. Tên gọi này chỉ ra việc từ chữ Hồng nói trại ra thành chữ Hường. Đây là lối nói tránh những từ húy kỵ rất phổ biến ở Huế như chữ cửa Đông Hoa nói trại tha`nh cửa Đông Ba vì chữ Hoa là chữ húy kỵ đối với vua. Chắc chắn là những người ở Hội An không thể nói tên gọi của trò chơi này theo một cách gọi của người Tàu (ví dụ như Đoạt Khôi Nguyên Đồng Khánh chi cục chẳng hạn ) mà chỉ có thể gọi một cách thuần Việt và Huế đặc là Xăm Hường.
Trò chơi Xăm Hường chắc là được bày ra sau đời vua Minh Mạng. Để thiết lập một nền quân chủ kỷ cương, ông vua văn võ song toàn này lập ra những bài thiệu 4 câu 5 chữ để phân biệt dòng chính và dòng thứ trong Nguyễn Phước Tộc. Mà dòng đích (chính hệ) là:
Miên Hồng Ưng Bửu Vĩnh
Bảo Quý Định Long Trường
Hiền Năng Kham Kế Thuật
Thế Thoại Quốc Gia Xương
Những dòng thứ (bàng hệ) có những bài thiệu khác.
Như vậy gọi là Hường để tránh chữ Hồng là chữ phạm húy.
* * *
Nhân đây tôi xin trình bày thêm về trò chơi Xăm Hường, một trò chơi phù hợp với niềm hân hoan của con người trong 3 ngày tết, phù hợp với việc tạo một không khí ấm cúng, đầy tình thương yêu gắn bó các thành viên trong gia đình,bằng hữu từ già tới trẻ ai chơi cũng được, cũng vui, thậm chí người không biết luật vẫn ngồi vào chơi được như thường.
Người ta thường chơi Xăm Hường trong mấy ngày tết, có kéo dài lắm thì cũng đến hết mùng thì thôi. Đây là một trò chơi tao nhã vì không ai dùng Xăm Hường để sát phạt. Hầu như không có tiếng cãi cọ, cay cú trong lúc chơi Xăm Hường, chỉ có tiếng cười vui rộn rã hòa với tiếng leng keng vui tai của nạm hột súc sắc xoay tròn trong tô kiểu cùng tiếng lách cách của những thẻ hường va chạm nhau.
Số lượng người tham dự trò chơi này có thể lên đến 12 người hay nhiều hơn nữa nếu chúng ta biết cách chơi. Do đó, Xăm Hường rất phù hợp với không khí gia đình chung vui trong ba ngày tết.
Chẳng ai chơi Xăm Hường mà tính chuyện gian lận vì không ai có thể điều khiển được một lúc 6 hột súc sắc. Tính minh bạch của trò chơi rất cao, 6 hột bày ra rõ ràng trước bao nhiêu cặp mắt nên người không biết tí gì về Xăm Hường cũng có thể ngồi vào chơi thoải mái, chỉ cần thả hột vào tô thì có người đọc và lượm thẻ giúp. Chỉ qua vài ba ván là biết được luật chơi liền.
Nhiều người tin rằng chơi Xăm Hường như một cách bói quẻ tốt xấu đầu năm. Trong cuộc chơi, ai lấy được Trạng anh (Trạng Nguyên), Trạng em (Bảng Nhãn, Thám Hoa) nhiều lần thì chắc cả năm danh tài đắc lợi, công việc hanh thông, thăng tiến. Trước ăn sau thua thì đầu năm tốt, nữa năm về sau xấu và nếu trước thua sau ăn thì ngược lại tiền hung hậu cát.
Nếu bị cướp trạng thì coi chừng những điều xui rủi, công việc gãy đỗ giữa chừng.
Hên nhất là ngũ hường đoạt tam khôi, cướp một lúc 3 ông trạng chắc là trong năm có cơ hội hoạnh phát tài lộc. Khó nhất là lục phú, tức là 6 hột súc sắc cùng hiện ra một mặt giống nhau. Vì là cực kỳ khó nên người ta tin rằng điều quá tốt hiển hiện thì có sự việc quá xấu tiềm ẩn.
Bàn về trò chơi Xăm Hường:
Có lẽ nhiều người chơi Xăm Hường thắc mắc vì sao người bày ra trò chơi này lại lấy mặt tứ (bốn) làm chuẩn của trò chơi, trong khi mặt nhất (một) cũng đẹp và cũng có màu đỏ.
Theo tôi, trò chơi mang tinh thần khuyến học. Vào thời quân chủ, người ta học hành theo lối từ chương với mục đích kiếm một chổ trong chốn quan trường. Muốn ra làm quan thì người học phải qua các kỳ thi Hương để đổ Tú Tài, kỳ thi Hội để đổ Cử Nhân và kỳ thi Đình để đậu đạt Tiến Sĩ.
Trong trò chơi Xăm Hường cũng có các cấp đỗ đạt như vậy mà phần thưởng cho người chơi là những thẻ xăm hường, trong đó cao nhất là Trạng Nguyên.
Vì là chốn quan trường nên cung quan là chủ đạo của trò chơi.
Trong quẻ Dịch có 6 hào từ sơ hào đến hào thượng. Sáu mặt của hột súc sắc (nhất – nhì – tam – tứ – ngũ – lục) tương ứng với 6 hào. Trong 6 hào của quẻ dịch thì hào 6 là ngôi trời, hào 5 là ngôi vua (cửu ngũ) và hào 4 là ngôi quan nên người bày ra trò chơi này lấy mặt tứ làm chủ đạo cho trò chơi. Mặt tứ có màu đỏ vừa vuông vắn, vừa đẹp lại vừa có ý nghĩa được gọi là Hường.
Người bày ra trò chơi dựa trên tính toán xác suất và tần suất xuất hiện của các mặt súc sắc để định ra luật lệ trò chơi. Càng khó xuất hiện (tức là xác suất thấp, tần suất xuất hiện ít) thì mức thưởng càng cao.
Từ đó hình thành ra các loại thẻ xăm hường. Bộ thẻ Xăm Hường được lập theo thứ tự quẻ Dịch: Thái Cực (1), Lưỡng Nghi (2), Tứ Tượng (4), Bát Quái (8) từ đó tăng dần lên theo cấp số nhân mà công bội là 2. Nếu tính đơn vị là 1 thẻ nhất hường (giá trị là 1) thì tổng giá trị của cả bộ Xăm Hường là 192 đơn vị, chia ra làm 6 loại thẻ, mỗi loại thẻ trị giá 32 đơn vị gọi là 1 Trạng.
Tên gọi và giá trị của các loại thẻ Xăm Hường:
TT |
Tên gọi |
Giá trị |
Số lượng (thẻ) |
1 |
Thẻ Trạng Nguyên (dân gian gọi là Trạng anh) |
32 |
1 |
2 |
Thẻ Bảng Nhãn, Thám Hoa (Trạng em) |
16 |
2 |
3 |
Thẻ Tam Hường |
8 |
4 |
4 |
Thẻ Tứ Tự (hay Tứ Tấn) |
4 |
8 |
5 |
Thẻ Nhị Hường |
2 |
16 |
6 |
Thẻ Nhất Hường |
1 |
32 |
Tổng mỗi loại thẻ có giá trị 32 đơn vị gọi là 1 trạng x 6 = 192 đơn vị, người ta gọi là 6 Trạng.
Thẻ Tam Hường còn gọi là thẻ Tam Hường Hội. Còn nhất hường, nhì hường tương đương với cấp đỗ đạt là Tú Tài, Cử Nhân thì tôi chì nghe nói mà thôi.
Như vậy chỉ với 1 bộ 6 hột súc sắc và một bộ thẻ như trên với 1 cái tô kiểu tiếng kêu thanh tao là ta đã sẵn sàng cho một cuộc chơi vui thú.
Những qui ước trong trò chơi Xăm Hường:
Người chơi được nhận thẻ xăm theo những gì xuất hiện trong 1 lần đổ hột vào tô.
Nhất Hường (1 mặt tứ) : lấy 1 thẻ một
Nhị Hường (2 mặt tứ) : lấy 1 thẻ 2 hoặc 2 thẻ 1 khi không còn thẻ 2.
Tứ Tự (hay còn gọi là Tứ Tấn): khi có 4 mặt giống nhau trừ mặt Hường (mặt bốn) thì lấy 1 thẻ 4. Nếu ngoài 4 mặt giống nhau đó có thêm 1 hường hay 2 hường thì lấy thêm 1 thẻ 1 hoặc 1 thẻ 2.
Tam Hường (3 mặt tứ): lấy thẻ 8
Nếu Tam Hường đi với 3 hột súc sắc còn lại cùng 1 mặt (ví dụ 3 tứ, 3 tam) thì gọi là Phân Song Tam Hường, lấy được 1 Trạng em và 1 thẻ Tam Hường (trị giá 24 thẻ)
Trạng em: có nhiều trường hợp xuất hiện được lấy Trạng Em (tức là Bảng Nhãn, Thám Hoa)
Suốt: 6 hột theo thứ tự nhất – nhị – tam – tứ – ngũ – lục.
Phân Song: là chia hai, 3 hột mặt này, 3 hột mặt kia (ví dụ 3 tam, 3 nhị)
Thượng Mã, Hạ Mã: theo chữ là “Thượng mã đề kim, hạ mã đề ngân” trong tích Tào Tháo đãi ngộ Quan Công trong truyện Tam Quốc Chí.
– Thượng mã là 3 đôi: 2 nhất, 2 nhị, 2 tam
– Hạ mã là 3 đôi: 2 tứ, 2 ngũ, 2 lục
Tứ Tự Cáp: Cáp nghĩa là ghép với nhau. Tứ tự là 4 mặt giống nhau, hai hột còn lại mà tổng số bằng với mặt tứ tự thì gọi là Tứ Tự Cáp.
Ví dụ: Tứ tự là 4 mặt ngũ, 2 hột còn lại có thể là 3 và 2 hoặc là 4 và 1 thì đều gọi là tứ tự cáp.
Có 2 trường hợp đặc biệt của tứ tự cáp:
– 4 mặt nhất và 2 mặt ngũ, lục thành ra 11 là tứ tự cáp của mặt nhất.
– 4 mặt nhị và 2 mặt nhất hoặc là 2 mặt lục cũng là cáp.
Bốn trường hợp trên, người chơi được quyền lấy thẻ trạng Em. Khi hết thẻ trạng Em giữa làng thì lấy tương đương giá trị 16 thẻ.
Trạng Anh (Tức là Trạng Nguyên) có 2 trường hợp.
Trạng Tứ hường (còn gọi là trạng Đỏ) bao gồm 4 mặt hường. 2 hột súc sắc còn lại cộng với nhau thành ra tuổi của Trạng.
Ví dụ: 4 hường và 2 mặt còn lại là 3 và 5 thì gọi là trạng 8 tuổi.
Khi một người đã lấy được trạng 8 tuổi, mà có người khác đổ hột súc sắc ra trạng Anh 9 tuổi trở lên thì người đó được lấy trạng anh từ tay người kia gọi là cướp trạng.
Ngoài tuổi của trạng xác định như trên còn có 2 trường hợp đặc biệt là Trạng cáp xiên và Trạng cáp chính.
Trạng cáp xiên là 4 tứ, 1 tam, 1 nhất.;
Trạng cáp chính là 4 tứ, 2 nhị.
Trạng cáp xiên cướp trạng có tuổi. Trạng cáp chính cướp được cả trạng cáp xiên.
Trạng ngũ tử (Trạng anh Đen): bao gồm 5 mặt giống nhau trừ hường. Hột xúc sắc còn lại là số tuổi.
Ví dụ: 5 mặt ngũ một mặt nhị thì gọi là Trạng ngũ tử 2 tuổi. Nếu người khác cũng ra ngũ tử mà tuổi lớn hơn thì cướp trạng.
Trạng ngũ tử có một trường hợp đặc biệt là ngũ tử đại ấn tức là 5 hột cùng một mặt, hột còn lại là mặt tứ. Trạng ngũ tử đại ấn cướp trạng ngũ tử có tuổi.
Có một quy định đặc biệt là loại trạng nào chỉ được cướp trạng loại đó. Trạng đỏ không được cướp trạng ngũ tử và ngược lại.
Trường hợp đổ ra trạng mà không cướp được trạng thì người ấy sẽ lấy 32 thẻ giữa làng.
Nếu người có trạng mà đổ ra trạng nhiều tuổi hơn thì chỉ được tăng tuổi trạng chớ không được phép lấy thêm thẻ giữa làng.
Ngũ hường đoạt tam khôi: Tức là 5 mặt hường thì được lấy cả 3 trạng (1 trạng anh và 2 trạng em) dù trạng đã nằm trong tay người khác. Hột súc sắc còn lại là số tuổi của ngũ hường.
Lục phú: Có 2 trường hợp:
Lục phú đen: 6 mặt giống nhau trừ hường.
Khi có lục phú thì không kể ai có bao nhiêu thẻ, tất cả người chơi đều đồng loạt chung cho người lục phú giá trị theo quy định (nếu 6 hoặc 7 người chơi, mỗi người phải chung 1 trạng)
Lục phú hường: 6 mặt tứ
Tất cả đều chung cho người có lục hường trị giá gấp đôi quy định (nếu chơi 6 hoặc 7 người thi 1 người phải chung 2 trạng)
Trong trường hợp, người chơi đổ hột văng ra ngoài thì xem như bất hợp lệ và phải bị phạt một thẻ hường thêm vào trạng.
Trường hợp người có trạng đổ hột những lần đầu không có hường thì mỗi lần bị phạt 1 thẻ thêm vào trạng.
Số lượng người chơi và cách tính số lượng thẻ của mỗi người chơi:
1. Từ 2 đến 7 người:
– Hai người: mỗi người phải đủ 32 x 3 = 96 thẻ.
– Ba người: mỗi người phải đủ 32 x 2 = 64 thẻ.
– Bốn người: mỗi người phải đủ 32 x 1,5 = 48 thẻ.
– Năm người: Có 2 cách:
+ Nếu chia đều thì bỏ bớt 2 thẻ, còn 190 thẻ, mỗi người phải đủ 38 thẻ.
+ Bán trạng: người có trạng anh được quyền bán trạng và những thẻ khác trên tay mình, không giữ lại thẻ nào. Như vậy, mỗi người khác phải đủ 48 thẻ.
– Sáu người: mỗi người phải đủ 32 thẻ.
– Bảy người: người nào có trạng anh sẽ bán hết thẻ trên tay mình cho người nào còn thiểu (mỗi người phải đủ 32 thẻ).
2. Bắt đầu 8 người chơi trở lên thì cách tính có phần phức tạp hơn. Số người chơi có thể nhiều nhưng nên chơi tối đa 12 người.
Từ 8 đến 12 người chơi, chúng ta áp dụng lối bán trạng 2 lần.
Nhiều người nghĩ rằng, bán trạng 2 lần là người có trạng được bán gấp đôi giá trị của thẻ trạng (32 x 2 = 64)
Thật sự, nếu chơi theo cách đó thì chỉ có 1 người vui vì ăn nhiều mà những người khác sẽ buồn vì ai cũng thua cả.
Theo tôi đã áp dụng và cách bán trạng 2 lần này hay hơn.
Bán trạng hai lần có nghĩa là cả trạng anh và 2 trạng em đều được bán.
Người có trạng em được xem như đủ thẻ, số còn lại mà người có trạng em lấy được thì được quyền bán.
Sau khi người có thẻ trạng em bán xong, thì người có trạng anh sẽ ăn hết phần còn lại
Số lượng thẻ cần có của những người chơi không có trạng giảm dần khi số người chơi tăng lên:
8 người chơi, mỗi người không có trạng chịu 32 thẻ
9 28 thẻ
10 25 thẻ
11 22 thẻ
12 20 thẻ
Số lượng thẻ này tùy theo sự giao ước của những người chơi. Con số trên đây chỉ là con số để tham khảo mà thôi.
Một số cải biến để trò chơi thêm hấp dẫn :
Đấu thẻ rời: Khi còn lại chỉ trạng anh, người ta tạo thêm hào hứng bằng cách đấu 1 , 2 thẻ hường. Ai nhiều hường hơn sẽ ăn hết. Lối đấu này chỉ căn cứ theo mặt hường.
Hạ giá trạng: Khi đã hết thẻ nhỏ mà đổ nhiều vòng không lên trạng, để cho nhanh có thể hạ giá trạng. Thông thường là phân song tam hường, có thể là trạng em trừ suốt (Có nghĩa là phân song, tứ tự cáp, thượng hạ mã)
Cướp Trạng Em: Khi có 8 người chơi trở lên, người chơi chấp nhận bán trạng 2 lần thì giá trị của trạng em tăng lên nhiều. Có thể chia ra 3 cấp để cướp trạng em.
Cấp I: Phân song tam hường
Cấp II: Phân song, tứ tự cáp, thượng mã, hạ mã
Cấp III: Suốt
Như vậy phân song tam hường có thể cướp trạng em cấp II và III, cấp II có thể cướp trạng em của Suốt.
Người lấy trạng em trước thì bị cướp trước.
Không lấy thẻ: Người chơi có quyền không lấy thẻ giữa làng vì không ai cấm 1 người từ chối quyền lợi mình được hưởng. Như vậy người chơi có cơ hội cướp trạng nhiều hơn.
Bằng cách chơi mới lạ này mà bạn bè Quốc Học 61-64 đã áp dụng trong buổi họp mặt đầu năm Đinh Hợi. Nó tạo nên niềm vui vô kể.
Hầu như trò chơi nào cũng có những biến thái thích hợp để tạo nên hào hứng và vui vẻ nhiều hơn. Do đó chúng ta không nên câu nệ lề thói cũ mà thử áp dụng những cải biến trong trò chơi xăm hường để trò chơi vui hơn, hấp dẫn hơn.
Chế tác thẻ Xăm Hường
Trong nội cung triều Nguyễn và các gia đình quan lại trước đây, thẻ xăm hường có thể làm bằng ngà voi. Sau này, thẻ xăm hường được làm bằng vật liệu khácdễ kiếm hơn. Vật liệu có thể là sùng bò, sùng trâu trắng, xương, tre, gỗ để làm xăm. Có thể in, vẽ hình trạng và ghi chữ Hán, cũng có thể ghi chữ số, miễn sao có đủ thẻ lớn nhỏ để chơi.
Bộ thẻ xăm hường của tôi được chế tác từ đủa nhựa melamine của Trung Quốc. Chỉ cần cắt dài ngắn khác nhau ta có thẻ nhất hường, nhị hường, tứ tự. Ghép 2 thẻ tứ tự cho dài hơn 1 tí ta có thẻ tam hường, ghép 3 thẻ dài hơn ta có trạng em, dài hơn chút nữa ta có trạng anh.
Dùng keo dán Super Glue đễ gắn các thẻ đủa lại với nhau. Cách chế tác này dễ dàng. ai cũng làm được vì đơn giản vô cùng mà âm thanh của thẻ va chạm nhau cũng thanh tao “nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau” vui tai lắm lắm .
Xăm hường là một trò chơi mang đậm nét văn hoá đặc sắc. Trò chơi phổ biến rất rộng rãi trong xã hội Huế và các vùng lân cận. Trò chơi vô cùng tao nhã và thân thiết.
Cứ mỗi lần Tết đến, được nghe âm thanh các hột súc sắc đỗ dòn trong cái tô kiểu, lòng người tự nhiên thấy rộn rã một không khí vui tươi, đầm ấm của một gia đình người Huế đón xuân.
Mỗi gia đình người Việt dù ở Việt Nam hay xa xứ nên kiếm mua hoặc tự làm một bộ xăm hường để gia đình được quây quần vui vẽ trong ba ngày Tết với trò chơi tao nhã: XĂM HƯỜNG
LÊ DUY ĐOÀN
Mông 8/1/Đinh Hợi.